Từ chiều mưa góc rừng ba biên giới
Cột mốc biên cương chung ba nước trên điểm cao 1.086 m so với mực nước biển, góc phương vị phóng chiếu hơn hai cây số về hướng ba quốc gia chỉ hiện hữu những núi non trùng điệp. Bên này, phía nước mình thuộc tỉnh Kon Tum; nước bạn Lào là tỉnh Attapư và Campuchia là tỉnh Ratanakiri. Khó có nơi nào như ở nơi này, chỉ xoay người một vòng quanh trụ đá là đã đặt chân lên quốc thổ ba nước.
1. Nhắc đến Tây Nguyên là nghĩ tới những đỉnh núi ở xứ sở thượng ngàn. Nơi tôi đang đứng trong chiều mưa này, không phải là một ngọn núi cao có tiếng mà chỉ là đỉnh đồi có độ cao vừa phải nhưng là một góc thiêng liêng. Từ cột mốc biên cương, nơi ghi dấu liệt oanh từ những cuộc chiến tranh vệ quốc và hành trình mở cõi, những hình dung về chiều kích và vóc dáng Tây Nguyên như được người du hành nắm bắt dễ dàng hơn. Dòng mạch ba chiều thời gian cũng hiện hữu rõ ràng: một quá khứ oai hùng, một đương đại rộng mở, một tương lai hứa hẹn sự phồn vinh. Trên đỉnh núi, màn mưa càng dày thêm, lan tỏa khói sóng mênh mang đại ngàn. Không gian ẩn hiện trong tầm mắt, phía này thì núi mình mà hai phía kia đã là rừng bạn.
Từ Ngã ba Đông Dương, tôi phóng tầm mắt theo hướng mặt trời ngược về Tây Nguyên. Trong dòng cảm thức ấy, như hiển hiện một miền suy tưởng miên man về xứ sở của mình; một vùng đất Tổ quốc vừa bí ẩn, ảo huyền lại vừa thân thương, gần gũi…
![]() |
Những miền quê Tây Nguyên được núi rừng hùng vĩ che chở. |
Núi non, sông suối nơi này là sản phẩm triệu năm của tạo hóa. Những đỉnh núi cao, những dòng sông sâu là không gian của tín ngưỡng và cả những chuyện tình lãng mạn. Núi sông Tây Nguyên không chỉ tồn tại như những chỉ dấu địa lý, mà là một phần hồn cốt thiêng liêng của đất nước mình. Ba dãy đại sơn Chư Yang Sin, Bidoúp và Ngok Linh sừng sững như ba nóc nhà từ ba góc đại ngàn hùng vĩ, tạo nên một thế đứng vững chãi, biểu tượng của tinh thần kiên trung và kiêu hãnh. Những dòng sông lớn như Krông Nô, Krông Ana, Sêrêpốk, Sê San, Đồng Nai bắt nguồn từ núi cao, len lỏi qua những cánh rừng, những buôn làng như những dải hoa văn đa sắc, chở trên mình những trầm tích, những giá trị lịch sử, văn hóa. Từ hoang liêu sơn dã, từ những làng buôn tựa lưng vào núi, ngửa mặt về sông mà trường ca Đam San, Xinh Nhã, Khinh Dú, Dyông Dư, Đăm Noi… ra đời. Từ đá núi, tre rừng mà những nhạc cụ như Lúrgòong, Tingning, Klôngpút, T’rưng… đã cất lên thanh âm huyền diệu. Những câu ca dao Nrí, Nrìng; những khúc dân ca Ayray, Kưứt, Lảhlông, Yalyău; những nhịp điệu dân vũ đặc trưng cũng hòa quyện hồn người bên bếp lửa trong những đêm trường đại ngàn, tạo nên một không gian như thực như mơ…
2. Bao tháng năm ngang dọc vùng đất đại ngàn, tôi luôn tự hỏi, chiều kích Tây Nguyên được định vị, đo lường bằng những tượng hình gì cụ thể? Đo bằng núi cao, sông sâu, bằng những cánh rừng huyền bí, những thảo nguyên mênh mông, những giá trị văn hóa thẳm sâu hay trầm tích hàng triệu năm kiến tạo? Quả thật, khó để định lượng bằng hình ảnh hiện hữu. Những ngọn núi cao hay thấp, những dòng sông lớn hay nhỏ đều có chung một mạch nguồn từ đâu đó thượng nguồn. Những buôn làng từ triền núi phía bắc đến dòng sông phía nam mà tôi từng qua hầu như có chung một cội rễ anh em. Tôi gặp ở làng Stơr của Anh hùng Núp, làng Salúk mà Georges Condominas tìm ra đàn đá và viết bộ khảo cứu lừng danh “Chúng tôi ăn rừng”, vùng Bờxaluxiêng của tộc người Stiêng kiên trung, buôn Kotam nơi người Êđê tôn thờ giọt nước đầu nguồn hay xứ sở của người Brâu bên Cửa khẩu Bờ Y… đều có chung sắc thái giản dị, thân thương giống nhau. Những buôn làng tôi qua đều có những ngọn núi, cánh rừng chở che, những dòng sông đắp bồi sự sống và con người hòa điệu vào thế núi dáng sông mà tạo nên hệ giá trị văn hóa trường tồn. Những dân tộc trên miền thượng du này dù rất ít người như Brâu, Rơ Măm hay đông dân như Êđê, Bahnar, Kơ Ho thì cũng chung ngôn ngữ, chung không gian cư trú, chung nhịp điệu cộng đồng, chung ngọn lửa thiêng ấm tình cao nguyên…
![]() |
Ở chốt biên phòng dưới chân cột mốc Ngã ba Đông Dương. |
3. Đã hiểu gì về Tây Nguyên hay chưa? Mỗi khi tự vấn lòng mình với câu hỏi đó tôi lại nghĩ về cuộc đời của nhà dân tộc học người Pháp nổi tiếng Jacques Dournes, người đã nói câu “nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu” khi ông trầm mình gần cả cuộc đời cùng văn hóa Tây Nguyên.
J.Dournes một lần đến Tây Nguyên sống gần mười năm với vai trò là nhà truyền giáo nhưng lại mê khảo cứu văn hóa bản địa mà “xao lãng mục vụ” nên bị triệu hồi về Pháp năm 1954. Lần thứ hai ông trở lại và sống cùng Tây Nguyên hơn mười năm nữa nhưng đã là một nhà dân tộc học đúng nghĩa cho đến khi bị buộc phải rời Việt Nam vào năm 1970. J.Dournes đã sống trọn vẹn một phần tư thế kỷ của cuộc đời mình với người Kơ Ho Sré trên cao nguyên Djiring và người J’rai vùng hạ nguồn sông Ba. Đến Tây Nguyên với trọng trách là một nhà truyền giáo, nhưng văn hóa Tây Nguyên, ngôn ngữ Tây Nguyên và những câu chuyện huyền ảo trong tâm hồn các tộc người Tây Nguyên đã chinh phục ngược ông. Nhà truyền giáo đã cải đạo của mình để theo tín ngưỡng đồng bào, buông giáo lý mà lần tìm những mạch nguồn văn hóa. Từ ruộng rẫy và bếp lửa nhà sàn giữa mênh mông đại ngàn, J.Dournes đã tạo nên những công trình khảo cứu tầm cỡ, làm nền cho những ai tìm kiếm dân tộc học Tây Nguyên. Trong số khoảng 250 công trình đã xuất bản của ông, những “Rừng, đàn bà, điên loạn”, “Pơtao: Một lý thuyết về quyền lực ở người Jrai Đông Dương” hay “Miền đất huyền ảo” là những mẫu mực về khảo cứu mà nhà nhân học này đã để lại trong quá trình chinh phục Tây Nguyên, hay đúng hơn là chính Tây Nguyên đã chinh phục ông. Dournes là một người “yêu để rồi hiểu” Tây Nguyên. Nhắc lại câu chuyện về J.Dournes để hiểu thêm rằng, Tây Nguyên là vùng đất có sức hút đến kỳ lạ như vậy.
* * *
Chiều kích Tây Nguyên sẽ được đo bằng tượng hình gì? Lại trở về với chiều mưa ở góc rừng ba biên giới. Trò chuyện cùng tôi trong chốt tiền tiêu là Đại úy A Hùng, người dân tộc Giẻ Triêng (Kon Tum) và binh nhất Vi Văn Nghiêu, người dân tộc Mường nhập ngũ từ Thanh Hóa. Lúc này tôi cảm nhận, chiều kích Tây Nguyên được đo bằng tình yêu đất nước của người lính biên phòng khi chúng tôi cùng nói về sứ mệnh thiêng liêng của những người giữ đất và ký ức về con thuyền độc mộc đưa đoàn quân ra trận ngày xưa của Anh hùng A Sanh trên dòng Pô Cô lững lờ trôi trước mặt. Cũng chiều nay, tôi ngồi với nữ già làng Y Pan hơn chín mươi mùa rẫy, nữ già làng của tộc người Brâu ở thôn Đắk Mế. Già Y Pan kể cho tôi nghe về dân tộc bà, câu chuyện sinh tồn và văn hóa của một tộc người chỉ có 322 nhân khẩu, ít hơn cả số lượng những chiếc lá trên một cây rừng. Hóa ra, chiều kích Tây Nguyên là những gì cụ thể, giản dị nhưng thiêng liêng nhất. Là cột mốc biên cương, là dáng cổ thụ bên rừng, là hòn đá cheo leo trên nền núi quốc thổ; là những con người bền bỉ giữ gìn văn hóa tộc người, là người lính hiên ngang làm cột mốc sống bảo vệ từng tấc đất quê hương…
Tôi cũng hiểu ra, miền mơ tưởng Tây Nguyên, xa thật là xa như hàng triệu năm kiến tạo núi cao, sông sâu, dựng nên những bộ sử thi kỳ vĩ kể về quá khứ oai hùng xứ sở. Miền mơ tưởng Tây Nguyên cũng thật gần gũi và thân thuộc như những con người mà tôi vẫn gặp trên miền đất đại ngàn này mỗi ngày thường như thế…
Ghi chép của Uông Thái Biểu
Ý kiến bạn đọc