Multimedia Đọc Báo in

Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV:

Tháo gỡ “điểm nghẽn”, khơi thông nguồn lực xã hội trong xử lý nước thải sinh hoạt

12:13, 28/10/2025

Sáng 28/10, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội xem xét và thảo luận tại hội trường về báo cáo của Đoàn Giám sát và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thi hành”.

Phát biểu thảo luận tại phiên làm việc, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk Lê Đào An Xuân đánh giá cao hoạt động của Đoàn giám sát và nội dung báo cáo giám sát, với một khối lượng công việc lớn, liên quan đến hầu hết các ngành, lĩnh vực, báo cáo đã thể hiện bức tranh tổng thể về BVMT nước ta giai đoạn 2022 – 2024.

Liên quan đến cơ chế chính sách xã hội hóa trong hoạt động xử lý chất thải, cụ thể là xử lý nước thải sinh hoạt, đại biểu cho biết: Theo Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đạt chuẩn đạt trên 50% đối với đô thị loại II trở lên và 20% đối với các loại đô thị còn lại.

Tại Chỉ thị 02/CT-TTg ngày 24/01/2025 về giải pháp cấp bách tăng cường công tác kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước một số lưu vực sông, chỉ tiêu đề ra năm 2025 là 30% nước thải sinh hoạt đô thị được thu gom và xử lý; 40% nước thải sinh hoạt nông thôn được xử lý bằng các biện pháp tập trung hoặc phân tán phù hợp. 

Qua đánh giá báo cáo giám sát, chỉ xét riêng chỉ tiêu năm 2025 thì hầu như không đạt được, xét cho cả giai đoạn thì đây là một thách thức rất lớn. Đại biểu phân tích: Tỷ lệ xử lý nước thải sinh hoạt rất thấp, đến cuối năm 2024, chỉ đạt khoảng 18%. Hoạt động của các nhà máy hiện hữu không hiệu quả, chỉ đạt khoảng 50% công suất thiết kế.

Để hiện thực hóa mục tiêu đến 2030, Bộ Xây dựng ước tính cần huy động nguồn vốn đầu tư 250.000 - 300.000 tỷ đồng, chắc chắn ngân sách nhà nước không thể đảm đương toàn bộ nhu cầu này.

Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Lắk Lê Đào An Xuân phát biểu tại phiên thảo luận. (Ảnh Đoàn ĐBQH tỉnh cung cấp)
Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Lắk Lê Đào An Xuân phát biểu tại phiên thảo luận. (Ảnh Đoàn ĐBQH tỉnh cung cấp)

Do vậy, muốn đạt được mục tiêu xử lý nước thải sinh hoạt đã đề ra đến năm 2030, ngoài việc sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước, việc thu hút nguồn lực ngoài ngân sách là tất yếu. 

Loại hình dự án xử lý nước thải sinh hoạt đã được đưa vào danh mục ưu tiên tại Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) và đã có một số chính sách về xã hội hóa, nhưng nguồn lực từ khối tư nhân tham gia vẫn rất khiêm tốn.

Theo thống kê năm 2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường trước đây, chỉ khoảng 10% dự án được triển khai theo hình thức BOT và BT. Như vậy có thể thấy các cơ chế thu hút xã hội hóa hiện nay là chưa hiệu quả. “Vậy chúng ta đang bị nghẽn ở đâu?”, đại biểu đặt vấn đề.

Qua tìm hiểu thực tế, đại biểu cho biết nhiều doanh nghiệp đang gặp không ít rào cản khi tham gia vào lĩnh vực này: Thứ nhất, cơ chế Giá dịch vụ xử lý nước thải (được ban hành năm 2018) còn thấp, hiện dao động ở mức 10-30% giá nước sạch, chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư. Bên cạnh đó, lộ trình điều chỉnh mức giá còn thiếu tính linh hoạt.

Thứ hai, rủi ro cao từ việc thiếu đồng bộ trong đầu tư hạ tầng: Hiện nhiều nơi đã đầu tư hệ thống thu gom nhưng chưa có nhà máy xử lý cuối nguồn; có nơi có nhà máy nhưng hệ thống thu gom chưa hoàn thiện hoặc tỷ lệ đấu nối còn thấp, dẫn đến các nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt tập trung chỉ vận hành trung bình khoảng trên 50% công suất thiết kế.

Quang cảnh phiên làm việc. Ảnh: quochoi.vn
Quang cảnh phiên làm việc. Ảnh: quochoi.vn

Việc thiếu hụt lưu lượng nước thải về hệ thống xử lý có thể nói là rủi ro lớn làm giảm hiệu quả đầu tư và làm mất đi lợi nhuận của nhà đầu tư.

Thứ ba, các chính sách pháp luật của nước ta thường xuyên thay đổi, tư duy nhiệm kỳ,… trong khi các dự án loại hình này có vòng đời dài, có khi đến 20 năm, tạo nên rủi ro pháp lý cao ảnh hưởng quá trình vận hành dự án.

Ngoài các nguyên nhân trên, vai trò của vốn ngân sách nhà nước cũng đóng vai trò lớn trong thúc đẩy các hoạt động xử lý nước thải một cách đồng bộ, tuy nhiên nguồn ngân sách nhà nước, trong đó có nguồn thu từ các công cụ kinh tế như thuế, phí BVMT chưa được bố trí thỏa đáng để quay lại hỗ trợ công tác BVMT (hiện chỉ đạt khoảng 51%). Trong khi đó, cơ chế tiếp nhận vốn viện trợ/hỗ trợ trong thực tiễn phát sinh một số bất cập, gây khó khăn công tác tiếp nhận.

Để tháo gỡ “điểm nghẽn” này, đại biểu kiến nghị một số giải pháp: Có lộ trình tăng mức chi từ ngân sách nhà nước cho BVMT nói chung và xử lý nước thải sinh hoạt nói riêng với mức đề xuất từ 1,5-2% tổng chi ngân sách nhà nước, trong đó bố trí thỏa đáng từ nguồn thu thuế, phí BVMT theo nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý”; ưu tiên bố trí vốn ngân sách nhà nước, vốn viện trợ để đảm bảo tính đồng bộ hệ thống thu gom và mạng lưới đấu nối.

Toàn cảnh phiên làm việc sáng 28/10. Ảnh: quochoi.vn
Toàn cảnh phiên làm việc sáng 28/10. Ảnh: quochoi.vn

Cùng với đó là tổ chức thực hiện nghiêm và có chế tài bắt buộc đấu nối nước thải; xem xét sửa đổi Nghị định số 114/2021, Nghị định số 80/2020 về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ/viện trợ, để tạo điều kiện để các địa phương tranh thủ tốt nhất các nguồn hỗ trợ phục vụ xử lý nước thải sinh hoạt nói riêng, xử lý môi trường nói chung. 

Đồng thời, rà soát, hoàn thiện Cơ chế Định giá Dịch vụ tính đúng, tính đủ chi phí, có lộ trình điều chỉnh phù hợp và minh bạch; rà soát, bổ sung các quy định trong hợp tác công tư  như cơ chế phân bổ rủi ro (lưu lượng, nguồn vốn chi trả, áp dụng quy định pháp luật từng thời kỳ), cơ chế lựa chọn nhà đầu tư, chuẩn hóa hợp đồng Dự án PPP riêng cho lĩnh vực xử lý nước thải sinh hoạt,… gắn với việc thực hiện Nghị quyết 67 về phát triển kinh tế tư nhân, tạo niềm tin và tính ổn định pháp lý cho nhà đầu tư trong suốt thời gian hợp đồng.

Bên cạnh đó, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh cho dự án xử lý nước thải sinh hoạt theo QĐ 21/2025 của TTg Chính phủ (thuộc Danh mục dự án phân loại xanh); đẩy mạnh vai trò của Quỹ BVMT để hỗ trợ lãi suất ưu đãi, nhất là cho các dự án xử lý nước thải sinh hoạt có quy mô nhỏ/phân tán và các doanh nghiệp vừa/nhỏ tham gia.

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt và các quy chuẩn địa phương để tạo ra sự chắc chắn về mặt kỹ thuật cho nhà đầu tư khi tính toán chi phí và mạnh dạn áp dụng công nghệ xanh, thông minh.

Đại biểu Lê Đào An Xuân nhấn mạnh: “Theo dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 14, BVMT được khẳng định mạnh mẽ là một trong 3 nhiệm vụ trung tâm để phát triển của đất nước, nguồn lực thực hiện không chỉ là tăng chi ngân sách nhà nước, mà là phải khai mở dòng vốn tư nhân. Chủ trương xã hội hóa là một chủ trương đúng đắn, chỉ khi làm tốt điều này, chúng ta mới đẩy nhanh được tiến trình xây dựng đô thị xanh - sinh thái, phát triển kinh tế tuần hoàn, đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ sức khỏe Nhân dân”…

Lan Anh


Ý kiến bạn đọc