Multimedia Đọc Báo in

Chuyện kể về nữ tướng rừng xanh

14:09, 30/12/2025

Trời đổ mưa lớn. Ngắm khu rừng sũng ướt bên những triền đồi trập trùng giữa miền cao nguyên Di Linh, tôi như còn nghe âm thanh những ngọn đuốc nổ lép bép và rực sáng trong đêm, dư âm của những tiếng hô vang vọng qua những ngọn núi, những cánh rừng của nghĩa quân Mọ Kọ làm lễ ăn trâu thề không đội trời chung với giặc Pháp xâm lược cách đây gần 70 năm.

Tôi như đang được chứng kiến ánh mắt rực lửa của bà, mái tóc trắng phau của bà rung rung trong gió và lời bà âm vang trầm hùng trước hàng quân: “Hỡi các thần! Hãy giết hết bọn thực dân Pháp xâm lược! Để cho người Thượng, người Chăm, người Kinh cùng nhau chung sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc!…”.    

Đã biết từ rất lâu chính quyền địa phương lấy tên của bà đặt cho một con đường ở xã Di Linh (Lâm Đồng) nhưng đến bây giờ tôi mới thực sự được bước chân trên con đường mang tên người phụ nữ Kơ Ho với cuộc đời đẹp như huyền thoại ấy.

Những chàng trai, cô gái Tây Nguyên hòa điệu nhịp chiêng.

Đường Mọ Kọ bắt đầu từ Quốc lộ 20 đoạn ngang qua xã Di Linh, gần với buôn Dong Dor nơi Ka Nhỗi cất tiếng khóc chào đời, cũng là nơi bà hội quân ăn thề chống Pháp. Hơn một cây số trải nhựa băng qua buôn Ka Ming của người Kơ Ho Srê, rồi dừng lại dưới chân đồi Dăng Kér, đó là nơi an nghỉ cuối cùng của nữ tướng rừng xanh vang bóng một thời. Anh K’Nhẽo, người cháu gọi Ka Nhỗi bằng dì ruột cùng tôi lên thăm phần mộ của bà. Ngôi mộ ấy cũng đơn sơ, khiêm nhường như bao nhiêu phần mộ của những người đồng tộc…  

* * *

Người già ở Dong Dor kể rằng: Tên mà cha mẹ và những người đồng tộc ở buôn đặt cho bà trong lễ thổi tai là Ka Nhỗi, một cái tên dịu dàng dành cho các cô gái Kơ Ho. Bà lớn lên, sống yên lành cùng với sáu anh chị em của mình là K’Gìm, K’Brìm, K’Gẹp, Ka Troil, Ka Dim, Ka Dép. Ka Nhỗi đẹp dịu dàng như con nai rừng thường về uống nước và nô giỡn cùng trăng bên suối Đạ Brăng, hồn nhiên như con chim R’tang vẫn véo von cất tiếng hót trên ngọn Dăng Kér. Nếu cuộc sống mãi yên lành thì Ka Nhỗi sẽ hằng ngày lên rừng hái măng, chiều chiều xuống suối kín nước. Đến tuổi cập kê cô gái ấy sẽ bắt chồng, sinh con trai khỏe, con gái khéo tay và sống một cuộc đời bình yên giữa buôn làng cùng với những người thân.

Nhưng rồi ngày vui không lâu, giặc Pháp, cái lũ sài lang từ miền đất xa lạ nào đó đã mang theo súng đạn đến đây. Chúng làm khổ người dân Việt, bắt người Thượng đi xâu, nộp thuế. Buôn làng sống trong cảnh tang thương, đau khổ và cùng cực. Có áp bức là có đấu tranh. Từ một cô gái dịu dàng, Ka Nhỗi trở thành nữ tướng của một phong trào chống Pháp - phong trào Mọ Kọ (một tên gọi khác của thủ lĩnh Ka Nhỗi). Bắt đầu từ buôn Dong Dor của cao nguyên Djirinh, tỉnh Đồng Nai Thượng (xã Di Linh, Lâm Đồng ngày nay), phong trào lan rộng, hàng nghìn người dân Kơ Ho, Mạ, Chăm và những người dân tộc thiểu số cùng khổ ở Tây Nguyên đã tụ về dưới trướng của bà. Người con gái Kơ Ho vừa bước qua hai mươi mùa rẫy đã trở thành nữ tướng. Bà là huyền thoại, là niềm tự hào của vùng đất Tây Nguyên đau thương và bất khuất, là nỗi kinh hoàng, khiếp sợ của kẻ thù…

Tư liệu về thủ lĩnh Ka Nhỗi và phong trào Mọ Kọ trên các trang sử địa phương không nhiều. Trong cuốn “Địa chí Lâm Đồng” có những dòng ngắn ngủi: “Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, từ năm 1937, một phong trào chống Pháp rất sôi động của đồng bào các dân tộc thiểu số bắt đầu từ miền Tây Bắc tỉnh Phú Yên đã lan rộng ra các vùng xung quanh và các tỉnh Tây Nguyên. Là một thành viên của phong trào, hai thủ lĩnh Ka Nhỗi và K’Voai đã thành lập những hội kín, vận động nhân dân quyên góp xu đồng để đúc mũi tên làm vũ khí, không đi xâu cho Pháp. Phong trào bắt đầu từ Dong Dor (Djirinh), sau đó phát triển, thu hút gần 10.000 người tham gia. Giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh thì thực dân Pháp phát hiện, bắt giam và tra khảo nhiều người, trong đó có hai thủ lĩnh nói trên. Ngày 13/12/1938, chúng lập tòa án tại huyện Djirinh, kết tội 14 người “âm mưu làm loạn chống lại chính quyền Pháp” và kết án họ từ 14 đến 20 năm tù, trong đó Ka Nhỗi chịu mức án 20 năm khổ sai. Bà bị giam ở Huế…”.                     

  * * *

Tôi đã có lần được gặp ông K’Sen lúc sinh thời, ông là cậu ruột và cũng là nghĩa quân thân cận của chủ tướng Ka Nhỗi. Lần đó, ông K’Sen đã kể về cuộc nổi dậy, đặc biệt là ông nhớ như in buổi lễ ăn thề. Ông nói rằng, sau lời khấn Yàng của thủ lĩnh Ka Nhỗi, nước thánh Da Yơn được phân phát cho từng nghĩa quân, có nghĩa là sức mạnh của thần linh được truyền vào đôi tay cho đôi tay thêm rắn chắc, truyền vào cho đôi chân thêm khỏe. Họ cùng tuyên thệ không đội trời chung với kẻ thù xâm lược; quyên góp tiền xu để rèn mũi tên đồng, quyên góp lương thực nuôi quân chuẩn bị cho cuộc kháng Pháp lâu dài. Cuộc nổi dậy diễn ra chưa lâu, nghĩa quân chỉ mới đánh vài trận nhỏ. Thế rồi, bọn thực dân và tay sai đã đánh hơi được, sau báo cáo hỏa tốc của Công sứ Pháp tại tỉnh Đồng Nai Thượng gửi Khâm sứ Trung Kỳ với nội dung: “Cuộc bạo loạn của người Thượng tại Đồng Nai Thượng”, kẻ thù đã tổ chức một cuộc bao vây quy mô lớn trong bảy ngày bảy đêm tại căn cứ Dong Dor. Thủ lĩnh Mọ Kọ và toàn bộ ban tham mưu của bà bị giặc Pháp bắt. Tòa án thực dân đã kết án nữ tướng Kơ Ho và “đồng bọn” tội “làm loạn, chống lại nhà nước bảo hộ”. Trước súng gươm của quân xâm lược, Mọ Kọ và những nghĩa quân của bà vẫn thể hiện tinh thần bất khuất, hiên ngang, vẫn lớn tiếng tố cáo tội ác của lũ sài lang cướp nước.

Ông K’Sen còn kể về câu chuyện tình lãng mạn và độc đáo “kể suốt ngày dài đêm thâu không dứt” của nữ chủ tướng chân đất mà ông hằng kính mến với chàng trai đồng tộc K’Jéo. Đó là mối tình duy nhất, mối tình đẹp như huyền thoại đã theo bà đến suốt cuộc đời, kể cả những năm tháng sống trong cảnh tù đày kìm kẹp của kẻ thù, kể cả khi bà đã về với đất sâu Dăng Kér bên dòng Dạ Brăng từ năm 1973…

Nối dài vòng xoang trong ngày hội.

Dong Dor ngày xưa, Djirinh và cả vùng đất Nam Tây Nguyên ngày xưa, trong bóng tối của đêm dài nô lệ, đã lóe lên ánh sáng của những phong trào phản kháng, chống lại kẻ thù chung mà cuộc nổi dậy của nghĩa quân Dong Dor dưới sự chỉ huy của nữ tướng Ka Nhỗi là một minh chứng sinh động của lòng yêu nước.

Thêm một lần cúi đầu ngưỡng vọng trước ngôi mộ đơn sơ không một dòng mộ chí của bà, tôi càng thêm khâm phục người nữ chủ tướng giữa rừng xanh năm xưa. Cô gái Kơ Ho dịu dàng, không hề biết chữ, chưa một lần làm quen binh đao với mái tóc trắng phau đứng trước hàng ngàn nghĩa quân tuyên thệ không đội trời chung với quân xâm lược. Chợt nghĩ, giá như ngay trên đỉnh đồi nơi ngày xưa bà hội quân ăn thề, một ngày không xa du khách đi qua ngước lên sẽ bắt gặp hình ảnh oai phong lẫm liệt của một bức tượng đài. Tượng đài ấy mang tên Mọ Kọ…

Uông Thái Biểu


Ý kiến bạn đọc