Kể chuyện thờ Bác giữa lòng địch
Một ngày đầu tháng 9/1969, Bác Hồ kính yêu đã về cõi vĩnh hằng khi một nửa nước còn đắm chìm trong lửa đạn đau thương. Hướng về Hà Nội, nơi có bóng hình Người, dù trong ngục tù đế quốc, giữa lòng đô thị sào huyệt kẻ thù hay buôn làng hẻo lánh, đồng chí, đồng bào các dân tộc anh em đều tìm mọi cách tưởng niệm và thờ cúng vị lãnh tụ kính yêu…
Lập bàn thờ Bác giữa lao tù
Bà Nguyễn Thị Phú, từng là một cơ sở cách mạng ở nội thành Đà Lạt kể lại: “Năm 1969, tôi bị địch bắt trong khi đang làm nhiệm vụ. Chúng giam giữ tôi tại nhà lao Đà Lạt. Tại đây, tôi gặp chị Sáu Muối cũng là cơ sở cách mạng, cũng bị địch bắt ở chung một buồng giam. Cuộc sống lao tù tăm tối; ngày nọ tiếp ngày kia, chị em chúng tôi phải chịu đựng biết bao cực hình tra tấn và phải nghe những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc cách mạng của địch. Vào một buổi sáng, đi ngang qua phòng giam, tên giám thị khu lao đứng lại trước cửa nói vọng vào, giọng đanh lại như thách thức: “Bác Hồ của tụi bay mất rồi đó, tụi bay để tang đi!”. Mặc dù chúng tôi vẫn bán tín bán nghi trước cái tin mà kẻ thù đã nhiều lần tung ra ấy nhưng cả phòng giam đều lặng người đi giây lát, rồi bàn nhau tìm cách xác minh xem có đúng Bác Hồ kính yêu đã mất hay không…”.
![]() |
Lúc sinh thời già làng Điểu Đoi - cựu du kích người dân tộc Mạ thờ Bác Hồ tại gia đình mình. |
Ngày hôm sau, cơ sở bên ngoài gửi vào cho chị em tù một tờ báo, có đưa tin Bác mất. Khi nhận được thông tin chính thức, tù nhân trong các phòng giam không ai giấu được nỗi xúc động, ai cũng khóc mà không dám khóc lớn. Không khí trong các phòng giam trở nên trầm lặng khác thường. Bà Phú cùng bà Sáu Muối bàn cách tổ chức cho chị em làm lễ tưởng niệm Bác. Và rồi, trong vòng kiểm soát gắt gao của nhà tù, không lập được bàn thờ, không có nén hương, chỉ có ngọn đèn dầu thắp sáng trong góc phòng giam, họ đã ngồi vây quanh, hai tay chắp trước ngực, nước mắt chảy dài...
Bà Phú xúc động: “Sau lễ tưởng niệm Bác, chị em chúng tôi ngồi lại kể cho nhau nghe những mẩu chuyện về Người mà mỗi người nghe được. Ai cũng có tâm tư và nỗi lo riêng, Bác mất rồi cách mạng sẽ ra sao? Ước muốn đón Bác vào thăm miền Nam khi nước nhà thống nhất đã không thực hiện được. Nhưng giữa lao tù đế quốc, chị em chúng tôi tự nhủ và động viên nhau quyết tâm biến đau thương thành hành động cách mạng”.
Biến đau thương thành hành động cách mạng
Trong hồi ký của mình, ông Hà Huy Do, nguyên Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Lâm Đồng ghi lại: “Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, tôi còn khắc ghi mãi những việc làm cảm động của đồng bào các dân tộc thiểu số Di Linh trong những ngày tháng 9 năm 1969, sau khi Bác Hồ kính yêu đã mãi mãi đi xa”.
Theo lời kể, một buổi chiều mưa tầm tã thượng tuần tháng 9/1969, đang trên đường về chiến khu nơi rừng già căn cứ Nam đường 20, gần đến núi Sa Bung (nơi cơ quan Tỉnh ủy Lâm Đồng đóng) thì qua làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, ông Do nghe tin Bác mất. Bàng hoàng, ông cố gắng đi tiếp về đến cơ quan Văn phòng Tỉnh ủy. Ở đây các cán bộ, công nhân viên đang chuẩn bị tổ chức lễ truy điệu Bác. Không gian như lặng đi trong giờ phút đau thương, ai cũng khóc và ân hận vì chưa hoàn thành được nhiệm vụ giải phóng miền Nam để đón Bác vào thăm. Sau khi dự hội nghị ở tỉnh, ông Do trở về địa bàn K3 (huyện Di Linh). Việc trước hết là tiến hành tổ chức lễ truy điệu Bác và tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào biết thân thế và sự nghiệp của Bác, tránh được sự xuyên tạc của kẻ thù.
Ông Hà Duy Do kể lại: “Cuối tháng 9/1969, tại một rẫy bắp của đồng bào Cơ Ho (thuộc xã Đinh Lạc, Di Linh), tôi đã mời một số cơ sở và quần chúng tốt sinh hoạt. Khi tôi chưa kịp hỏi tình hình trong khu ấp chiến lược và bàn công tác đấu tranh thì các cơ sở đã vội vàng hỏi: Anh có nghe, có biết tin Bác Hồ mất chưa? Dân chúng trong các ấp chiến lược nhiều người biết rồi đó, họ bàn tán công khai việc này và được nhìn thấy cả ảnh của Bác Hồ nữa. Tôi không khỏi ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh em và trả lời cho mọi người biết là Bác Hồ đã mất thật rồi”. Mọi người như lặng di theo dòng suy nghĩ của mình. Ông Do giải thích cho mọi người hiểu vì tuổi cao, sức yếu và trải qua nhiều gian khổ nên Bác đã phải ra đi mặc dù Đảng, Nhà nước đã tập trung, tận tình cứu chữa.
Hiểu rõ được mọi điều, anh em quyết tâm biến đau thương thành hành động cách mạng. Ngay trong thị trấn Di Linh, nơi cơ quan đầu não của địch đóng giữ, nhân dân vẫn tìm mọi cách làm lễ truy điệu, lễ cầu siêu cho Bác. Cũng chính trong những ngày đau thương đó mới thấy hết được tình cảm thiêng liêng của đồng bào các dân tộc Di Linh nói riêng, người dân Lâm Đồng và miền Nam nói chung dành cho Bác kính yêu…
![]() |
Dòng người vào lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. |
Thêm nghị lực để vượt qua thử thách
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vợ chồng ông Hồ Quyết Tiến và Nguyễn Thị Ngọc Sương được tổ chức bố trí hoạt động hợp pháp tại thị xã B'Lao (Bảo Lộc). Hoạt động ngay giữa sào huyệt của địch nhưng họ luôn tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã vạch ra. Hình ảnh cao đẹp của Bác bao giờ cũng là nguồn động viên lớn nhất đối với hai chiến sĩ theo Đảng làm cách mạng.
Ngày 3/9/1969, Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin Bác ốm nặng. Sáng hôm sau, khi nghe tiếng phát thanh viên nghẹn ngào báo tin Bác không còn nữa, ông Tiến, bà Sương vô cùng xúc động, không dám tin đó là sự thật. Trưa hôm đó, có bốn đảng viên và cơ sở đến nhà và hỏi: “Có phải Bác mất rồi không? Bây giờ phải làm gì?”. Vợ chồng ông Tiến, bà Sương đã bảo anh em về nhà mình thắp nhang thờ cúng Bác, chi bộ sẽ bàn kế hoạch tổ chức lễ truy điệu Bác. Vài ngày sau, chi bộ họp tại nhà họ bàn việc tổ chức lễ truy điệu và vận động nhân dân tưởng nhớ Bác dưới hình thức cầu siêu.
Sáng 10/9/1969, chi bộ hoạt động bí mật trong nội thị Bảo Lộc đã tổ chức lễ truy điệu Bác. Cùng với các loại hoa quả, hương đèn, trên bàn thờ, hai bên là cờ Đảng và cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và khẩu hiệu “Vô cùng thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại” và “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”. Tất cả các lá cờ và khẩu hiệu đều làm bằng giấy để khi làm lễ xong đốt ngay, đề phòng địch theo dõi phát hiện.
Buổi lễ được tổ chức trang nghiêm, xúc động. Đồng chí bí thư chi bộ trình bày tiểu sử của Bác, ôn lại công ơn to lớn của Bác đối với dân tộc, đất nước và nhân dân. Sau đó, chi bộ xác định nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với nhiệm vụ được phân công. Mọi người ai cũng xúc động, khóc nức nở trước tổn thất to lớn này.
Ông Hồ Quyết Tiến nhớ lại: “Sau lễ truy điệu, anh em nhanh chóng thu dọn bàn thờ và giải tán bằng nhiều hướng khác nhau. Chiều hôm đó, theo giờ hẹn trước, ba đảng viên hoạt động đơn tuyến đến nhà chúng tôi thắp nhang lên bàn thờ Bác, chúng tôi cũng trao đổi về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác, xác định vai trò trách nhiệm của mỗi đảng viên. Vài ngày sau, 10 cơ sở ở xa (có 1 anh là ngụy quân) đến gặp chúng tôi hỏi thăm tình hình, xin ý kiến về việc tổ chức thờ cúng Bác ngay tại gia đình. Việc thờ cúng Bác được nhiều đảng viên và cơ sở đưa ra trao đổi. Lúc đầu có người xin được để tang Bác ba năm, nhưng sau đều thống nhất để tang trong một năm, từng gia đình thờ cúng Bác nhưng phải hết sức giữ bí mật. Theo nguyện vọng chung của anh chị em, chi bộ quyết định lập bàn thờ Bác tại nhà chúng tôi. Bàn thờ có một đôi đèn, lư hương bằng đồng và ảnh Bác cắt từ báo. Từ đó, đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, mỗi năm vào dịp Tết, tất cả các đảng viên trong chi bộ và nhiều cơ sở cách mạng đều mang hoa quả đến thờ cúng Bác. Việc làm này đã tiếp thêm động lực giúp mỗi đảng viên, cơ sở cách mạng vượt qua mọi gian nan thử thách, hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và cách mạng giao phó”…
Uông Thái Biểu
Ý kiến bạn đọc