Multimedia Đọc Báo in

Bài học hòa hợp và thu phục nhân tài

10:24, 29/09/2025

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời tháng 9/1945, nước ta đứng trước những thử thách vô cùng lớn lao về kinh tế. Ấy là hậu quả của nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật gây ra, ngân khố trống rỗng, tài chính phục vụ cho Nhà nước non trẻ hầu như chẳng có gì. Trước tình hình ấy, Chính phủ kêu gọi đồng bào quyên góp để kiến quốc bằng phong trào “Tuần lễ vàng” đóng góp vàng bạc để có nguồn tài chính từ 17/9 đến 24/9/1945.

Vào ngày 16/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có “Thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp Tuần lễ vàng”. Trong đó, Người nhấn mạnh đến vai trò của những “nhà giàu có”: “… Muốn củng cố nền tự do độc lập ấy, chúng ta cần sức hy sinh phấn đấu của toàn quốc đồng bào; nhưng chúng ta cũng rất cần sức quyên giúp của nhân dân, nhất là những nhà giàu có. Ý nghĩa Tuần lễ vàng là ở đó. Tuần lễ vàng sẽ thu góp số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu có để cúng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là việc quốc phòng. Tuần lễ vàng sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và cho toàn thế giới biết rằng trong lúc chiến sĩ Việt Minh trên các mặt trận quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự do độc lập của nước nhà, thì đồng bào ở hậu phương, nhất là những nhà giàu có, cũng có thể hy sinh được chút vàng để phụng sự Tổ quốc. Như thế Tuần lễ vàng không những có ý nghĩa giúp vào nền tài chính quốc phòng, nó còn có một ý nghĩa chính trị quan trọng. Vì vậy tôi mong rằng toàn quốc đồng bào nhất là các nhà giàu có hết lòng vì nước hy sinh…”.

Từ đó, nhiều nhà tư sản, điền chủ lớn nhỏ đã nhiệt thành hưởng ứng sự kiện tài chính độc đáo trong lịch sử này, chẳng hạn như: Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình Thiện… Họ tự nguyện đóng góp vì hiểu rằng đó là nguồn lực tài chính rất hệ trọng để tăng cường quốc phòng đất nước, ngõ hầu bảo vệ giá trị còn quý hơn cả vàng rất nhiều lần, có thể nói là vô giá: độc lập, tự do của đất nước, của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Huỳnh Thúc Kháng (hàng đầu, thứ nhất từ phải sang) trong Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ảnh tư liệu.

Một điều dễ thấy nữa là trong chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ có những người cộng sản mà còn cả những người xuất thân từ các tổ chức chính trị khác hoặc là người không đảng phái vẫn được trọng dụng, miễn là vì mục tiêu chung của đất nước. Có thể thấy những người xuất thân là đảng viên Quốc dân đảng như Giáo sư Trần Huy Liệu, Trung tướng Nguyễn Bình… sau này giác ngộ lý tưởng cách mạng, cống hiến xứng đáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập, tự do. Hay khi cách mạng mới thành công, Chính phủ đã mời những cựu đại thần triều Nguyễn ra tham chính như Thượng thư Bùi Bằng Đoàn hay chức sắc tôn giáo như linh mục Phạm Bá Trực… Bằng tài năng và tâm huyết của mình, họ đã đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, chung tay góp sức chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập lúc còn rất non trẻ.

Hay như việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sĩ yêu nước không tham gia đảng phái, có uy tín lớn ra gánh vác giang sơn dù biết rằng cụ Huỳnh chưa hề tham gia các tổ chức cộng sản. Sau đó, cụ Huỳnh đã làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, và có thời gian giữ chức Quyền Chủ tịch nước gần 5 tháng (từ 31/5/1946 - 20/10/1946) khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp. Khi tạm biệt, cụ Huỳnh hỏi cụ Hồ về phương lược giữ nước, cụ Hồ điềm đạm, ân cần nói rất ngắn gọn, súc tích và đầy ý nghĩa: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (nghĩa là lấy cái không thay đổi để ứng phó với mọi sự đổi thay). Và cụ Huỳnh đã không phụ lòng cụ Hồ cũng như mong đợi của toàn dân, hoàn thành xuất sắc những trọng trách quốc gia đại sự trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng, vận mệnh quốc gia ngàn cân treo sợi tóc.

Ngay trong hàng ngũ các chỉ huy quân sự, Chính phủ cũng lưu tâm, trọng dụng những người có năng lực mà không đặt nặng vấn đề lý lịch, thành phần xuất thân miễn là họ có tinh thần yêu nước, tận tâm vì việc chung là được. Ví như sĩ quan Phan Tử Lăng của quân đội Pháp được chọn phục vụ trong quân đội cách mạng với nhiều đóng góp quan trọng như soạn thảo quy tắc quân đội quốc gia (1946), giữ chức Cục trưởng Cục Quân chính… từng được Bác Hồ tặng áo lụa trắng vì ngợi khen tinh thần phụng công, liêm khiết.

Bài học rút ra trước hết là nhờ chính quyền cách mạng có chính sách sáng suốt và tích cực thực hiện, bỏ qua những khác biệt để hòa hợp trong điểm chung lớn nhất là yêu nước và vì nước; thứ nữa là nhờ uy tín, tấm lòng của các nhà cách mạng, đặc biệt là vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh; sau cùng là bởi tinh thần yêu nước, nhiệt tình với non sông của các nhà tư sản, điền chủ, các nhân sĩ trí thức, các cựu quan lại triều đình Huế, các cựu sĩ quan quân đội Pháp, Nhật… đã đồng lòng tận hiến vì Tổ quốc, đồng bào.

Bài học này vẫn còn giá trị lớn lao, vẫn rất thời sự cho hôm nay và cả mai sau…

Phạm Xuân Dũng


Ý kiến bạn đọc