Multimedia Đọc Báo in

Tướng Moore và hai cuộc “gột rửa” ở thung lũng Ia Đrăng

09:21, 14/12/2025

Tháng 11/1965, để cứu nguy cho quân đội Sài Gòn ngày càng khốn quẫn, Mỹ đã ồ ạt đổ quân vào miền Nam.

Tại Tây Nguyên, Sư đoàn kỵ binh bay số 1 được đổ xuống An Khê để trấn giữ cửa ngõ “nóc nhà Đông Dương” và sẵn sàng ứng phó cho quân ngụy. Đây là sư đoàn từng nổi tiếng tại chiến trường Thái Bình Dương trong thế chiến thứ hai và chiến tranh Triều Tiên. Là đơn vị cơ động đầu tiên của quân lực Hoa Kỳ được trang bị hỏa lực tối tân, đặc biệt là máy bay trực thăng, kỵ binh bay số 1 được coi là “con cưng”, “bất khả chiến bại” của quân đội Mỹ…

Để thử sức với đội quân thiện chiến nhà nghề, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định mở chiến dịch Plei Me lịch sử.

Tướng Moore (người cúi đầu) và các cựu binh Mỹ chụp ảnh lưu niệm tại thung lũng Ia Đrăng 1997. 

Ngày 17/11/1965, quân địch đổ xuống thung lũng Ia Đrăng 2 tiểu đoàn do Thiếu tá Harold Moore trực tiếp chỉ huy… Vừa đặt chân xuống đất, chúng đã bị quân ta chia cắt, vây đánh tơi bời với thế trận đã giăng sẵn. Kết cục Tiểu đoàn 2 của Lữ 3 “kỵ binh bay” bị xóa sổ. Tiểu đoàn 1 của Moore bị thiệt hại nặng, chỉ một số may mắn lên được trực thăng tháo chạy khỏi vùng tử địa. Đài BBC đưa tin: “Thiếu tá Moore thoát chết, về đến Sài Gòn còn khóc sướt mướt trước các nhà báo…”.

Dù sao sau trận thua cay đắng này, Moore vẫn phải tiếp tục cái “nghiệp” của mình. Mãi đến năm 1975 ông mới trở về Mỹ, được phong Trung tướng rồi nghỉ hưu…

***

Tháng 11/1993, tướng Harold Moore và 10 quân nhân cấp tá từng dự trận Ia Đrăng trở lại chiến trường xưa - thung lũng Ia Đrăng (khi đó thuộc xã Ia Puch, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai cũ). Cùng đi có Thượng tướng Nguyễn Hữu An - người chỉ huy chiến dịch Plei Me giai đoạn 2, Đại tá Vũ Đình Thước và Trần Minh Hảo - nguyên chiến sĩ Trung đoàn 66; nhà báo Josep Gallo Way của US New, người quay phim và dẫn chương trình của hãng truyền hình ABC Forell Soyd…

Từ trên trực thăng bước xuống, Moore nhìn quanh một thoáng rồi vội sải bước đến một căn hầm đã đổ nát chìm khuất trong cây cỏ um tùm.

Trở lại mảnh đất ghi dấu một thất bại đắng cay nhất trong cuộc đời binh nghiệp của mình, vị tướng này đang nghĩ gì và sẽ nói gì khiến các nhà báo cứ bồn chồn…

Trầm tư trước căn hầm một lúc, Moore bước tới hỏi Thượng tướng Nguyễn Hữu An hỏi:

- Thưa ngài, ngài đã nghĩ gì khi quân Mỹ vào tham chiến ở Việt Nam?

- Chúng tôi biết điều đó tất yếu sẽ xảy ra. Nhưng một quân đội như quân đội Sài Gòn thì Mỹ cũng chẳng cứu vãn được. Và như ngài đã biết, tình hình chỉ mỗi lúc một xấu đi.

- Nguồn tin nào đã cho các ngài biết Mỹ sẽ đổ quân xuống Ia Đrăng?

- Người chỉ huy nào cũng phải có cách để nắm đối phương. Đó là yếu tố cơ bản để giành thắng lợi. Chúng tôi dự đoán hành động của các ngài bằng kinh nghiệm và phương tiện của chúng tôi.

Phóng viên Forel Soyd xen vào: “Thưa, tôi nghe nói lực lượng của ngài lúc đó đông tới cấp sư đoàn?”

Thượng tướng Nguyễn Hữu An chỉ cười: “Tâm trạng của người chỉ huy khi thua trận thường đề cao đối phương, đôi khi phóng đại để lý giải cho sự thất bại. Hôm nay tôi xin công khai với các ông: Đánh với 2 tiểu đoàn Mỹ, chúng tôi chỉ sử dụng 2 trung đoàn thiếu”.

Màu đông đã nhuốm dần thung lũng. Thượng tướng Nguyễn Hữu An có việc phải bay về Pleiku trước. Đoàn của Moore xin ở lại để tiếp tục “chiêm nghiệm” chiến trường xưa. Lúc tạm biệt, Moore cầm tay Thượng tướng An nói: “Bây giờ thì tôi đã hiểu hơn về quân đội của các ngài. Xin được cảm ơn Chính phủ Việt Nam và các ngài đã cho tôi cơ hội trở lại nơi đây…”

                                                      ***

Tháng 11/1997, khi đã 75 tuổi, Harold Moore lại xin phép được trở lại Ia Đrăng lần thứ 2. Cùng đi với Moore, ngoài một số cựu chiến binh Mỹ còn có cậu con trai của ông.

Sau khi đến chào và tặng UBND tỉnh Gia Lai cuốn hồi ký “Đã một thời chúng tôi là lính”, Moore xuống huyện Chư Prông bằng ô tô.

Cuộc viếng thăm “dối già” của vị tướng Mỹ đến chiến trường xưa được địa phương bố trí chu đáo.

Có lẽ cõi lòng đã được “gột rửa” khá nhiều từ chuyến đi trước nên tâm trạng Moore đã bớt ưu tư. Ông nhanh nhẹn dẫn con trai luồn qua những vạt cỏ cao lút đầu để tìm vết tích của cuộc chiến năm nào còn lại… Chẳng còn gì ngoài những mảnh thép, những mẩu nhựa rỉ nát bởi thời gian. Tất cả những thứ đó đều được Moore nâng niu bỏ vào chiếc túi bên mình…

Chợt nghe Moore “ô la la” mừng rỡ. Tưởng ông phát hiện được báu vật gì, mọi người đổ xô lại thì hóa ra là một ụ mối. Một ụ mối to như đụn rơm bên cạnh gốc cây dầu cổ thụ. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Moore xúc động kể: Trong những giờ phút khủng khiếp của cuộc chiến đẫm máu năm ấy, khi ông vừa rời vị trí chỉ huy để cùng số lính Mỹ sống sót tháo chạy khỏi Ia Đrăng, tới đây thì bị quân giải phóng vây chặt. Xung quanh ông đâu cũng vang lên tiếng kêu hãi hùng của quân Mỹ. Nhiều lính Mỹ phải tháo bỏ ba lô, túi quân dụng để cố chạy đến bìa rừng nhưng vẫn không thoát. Trong lúc hoảng loạn, rất may Moore đã gặp được ụ mối. Có cảm giác như bị vây giữa bức tường đạn nhưng ụ mối như một khối bê tông đã cứu ông ta thoát chết…

Câu chuyện của Moore đã khiến các cựu chiến binh Mỹ xúc động, nhất là cậu con trai. Phóng cái nhìn đăm chiêu về những dãy núi xa mờ, có lẽ anh đang tự hỏi: Vì lẽ gì mà những người Mỹ như cha anh đã phải bỏ mạng một cách vô nghĩa ở cái thung lũng hiu hắt và buồn bã này…

Đến giờ về, Moore đề nghị các thành viên trong đoàn chụp ảnh lưu niệm. Tôi để ý dường như không bức nào có nụ cười của ông. Thế nhưng trên đường về Moore lại cười rất tươi, luôn tay vẫy chào những tốp đồng bào đi rẫy về khi họ chỉ vào ông và “Hello Mỹ, Mỹ…”.

Ngọc Tấn


Ý kiến bạn đọc