Một cái tên chợt thức…
Tháng 12/1976, đất nước vừa ngưng tiếng súng chưa lâu, những người lính E711, 576, 240… đã nhận lệnh tiến quân về núi rừng Ka Nak (thuộc huyện Kbang cũ, nay là xã Kbang, tỉnh Gia Lai) làm nhiệm vụ phát triển kinh tế.
Phiên hiệu Đoàn 332 nay dù không còn, song những cống hiến, hy sinh thầm lặng cho một miền đất hãy còn nguyên đó. Những người lính Đoàn 332 đã để lại những cánh rừng nhuốm muối mồ hôi và máu, gửi lại nỗi khắc khoải và bao niềm hy vọng cho thế hệ đi sau...
Ký ức mở rừng
Nói đến “Lâm trường 10” thì chỉ những người lính Đoàn 332 hoặc Liên hiệp Kon Hà Nừng mới biết. Nguyên Đoàn 332 – Liên hiệp Kon Hà Nừng có 9 lâm trường. Những người hy sinh được quy tập lại một nghĩa trang gọi là “Lâm trường 10”. Nghĩa trang có đủ giám đốc, phó giám đốc, kế toán, quản lý… như bộ khung một lâm trường hoàn chỉnh. Cái tên “Lâm trường 10” ngỡ gọi đùa mà gieo vào lòng người cùng thời bao nỗi ưu tư…
Tôi đến viếng những người nằm lại “Lâm trường 10” một ngày giữa mùa mưa. Người hướng dẫn tôi là ông Trương Văn Nhuần, nguyên Trưởng Ban Tuyên huấn Đoàn 332. “Lâm trường 10” bây giờ không chỉ lính Đoàn 332 hay Liên hiệp Kon Hà Nừng mà đã trở thành nghĩa trang của “thập loại chúng sinh”. Chúng tôi nhận ra các anh, chị nhờ những tấm bia gỗ có dòng chữ “Quân đội nhân dân Việt Nam”. Ông Nhuần cho biết phần lớn mộ đã được thân nhân cất bốc về quê; số còn nằm đây có thể không còn ai thân thích. Xưa Tết đến bạn bè còn ra tảo mộ, thắp cho nén hương. Từ ngày liên hiệp giải thể chẳng còn ai trông ngó nữa.
Câu chuyện trở về với những năm đầu sau giải phóng... Ngày 2/12/1976, khi đất nước mới ngưng tiếng súng chưa lâu, những người lính E576, E36, E240… đã nhận lệnh hành quân về Ka Nak để thành lập Đoàn 332 làm nhiệm vụ phát triển kinh tế. Bấy giờ cái tên huyện Kbang chưa có trên bản đồ. Chỉ không còn tiếng đạn bom, còn thì vẫn như y nguyên mọi sự gian khổ trong chiến tranh.
Ông Nhuần hồi tưởng: “Ngày chúng tôi vào đây, rừng Kbang hãy còn là một khối nguyên sơ. Con đường 669 có từ thời Pháp, gai góc mọc đầy và cũng chỉ đến Ka Nak là hết. Các đơn vị phải tự mở lấy đường mà đi; gạo, muối, quân dụng đều chất lên vai cõng như thời chiến. Mỗi tối phải đốt lên một đống lửa thật lớn để xua thú dữ và hơi giá của rừng già… Rừng Kbang bấy giờ rất nhiều thú dữ, nhất là cọp. Cứ mỗi sáng mở cửa lại thấy dấu chân của chúng in đầy quanh lán. Ổn định tạm chỗ ở, chúng tôi phải ngay lập tức bắt tay vào sản xuất lương thực. Lương thực bấy giờ chủ yếu là sắn; cơm độn sắn có khi đến 70%. Thực phẩm thì phổ biến là cá chuồn khô nhưng không phải lúc nào cũng có. Cả đến muối ăn gặp khi mưa nhiều, đường tắc cũng phải chịu nhạt… Rừng thiêng nước độc, ăn uống kham khổ, sốt rét hoành hành. Gần như không ai là không sốt. Có tiểu đoàn cả 100% quân số đều sốt. Đến đơn vị nào cũng gặp những thân hình võ vàng, co quắp trên sạp nứa… Thuốc men thiếu, đường sá ách tắc, thực sự không ít người phải chịu chết oan. Ở Tiểu đoàn vận tải có chuyện thương tâm thế này: Một chiến sĩ lên cơn sốt nhưng giữa trời đêm mưa gió, anh em không có cách nào đưa đi bệnh xá được. Để bạn cầm cự qua cơn chờ trời sáng, một chiến sĩ đã ôm bạn vào lòng để truyền thêm hơi ấm, sáng thức dậy mới hay bạn đã chết tự bao giờ!”.
![]() |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm cán bộ, chiến sĩ Đoàn 332 năm 1978. Ảnh tư liệu |
Thực ra sốt rét chỉ là một trong muôn sự hiểm họa đổ xuống người lính. Thượng úy Phạm Ngọc Tường, Đội trưởng Đội Khảo sát trong một lần đi điều tra rừng bị vướng bẫy thò. Vết thương chỉ vào phần mềm ở đùi song bởi đường xa, phương tiện không có đành chịu chết trên vai đồng đội vì mất máu… Anh Bảng, cán bộ quản lý Trung đoàn bộ 713 một chiều ngồi uống nước với anh em dưới gốc cây, bất thần bị một cành khô rơi trúng đầu không kịp cấp cứu… Anh Bàn, Giám đốc Lâm trường 7 đã về quê mà căn bệnh sốt rét vẫn còn bám theo quật ngã. Cũng tại lâm trường này, anh Thọ trên chuyến xe đi khảo sát công trường đã bị cây nứa chìa ra bên đường đâm qua người… Còn một cái chết mà bây giờ nhắc tới người cũ ai cũng còn thấy ngậm ngùi: Anh Châu Phúc Thành ở Công ty Lâm nghiệp Krong lấy vợ đã 3 năm vẫn chưa có con. Thấy chồng cứ biền biệt xứ rừng, chị Vũ Thị Tý đã lặn lội từ Thái Bình vào thăm. Buồn thay niềm mong mỏi có được đứa con chưa tới thì chị bị sốt rét ác tính. Đi thăm chồng, ai ngờ chị lại đến đất này để vĩnh biệt chồng…
Những người lính từng qua trận mạc bom đạn, những kỹ sư trẻ đang nuôi khát vọng cống hiến; những chàng trai, cô gái chưa một lần yêu… cái chết nghiệt ngã, bất thần chẳng từ ai. Thống kê chưa đầy đủ, đã có hơn 80 cán bộ, chiến sĩ và công nhân phải nằm lại “Lâm trường 10”...
Điều không thể mất
Sau hơn 2 năm mở đường, xây dựng cơ sở trong điều kiện vô cùng gian nan, cuối năm 1978, Đoàn 332 mới chính thức làm nhiệm vụ kinh tế lâm nghiệp. Tuy nhiên cuối năm 1979, Hội đồng Bộ trưởng có quyết định thành lập Liên hiệp Lâm – Nông – Công nghiệp. Từ đây Đoàn 332 mang phiên hiệu mới: “Liên hiệp Lâm – Nông – Công nghiệp Kon Hà Nừng”.
Bấy giờ chúng ta đang chủ trương hợp tác toàn diện với Liên Xô, Liên hiệp Kon Hà Nừng được chọn hợp tác về lâm nghiệp. Để triển khai chủ trương này, 50% lực lượng xe máy của Quân khu 5, khoảng 3.000 lao động và cán bộ kỹ thuật chủ yếu là từ các tỉnh phía Bắc được bổ sung, nâng con số biên chế Liên hiệp lên đến 10.000 người. Một đoàn cán bộ kỹ thuật, chuyên gia của Liên Xô cũng sang khảo sát… Nhưng rồi mọi việc chỉ dừng ở đó. Liên hiệp chủ yếu vẫn làm nhiệm vụ khai thác gỗ và tu bổ rừng theo cơ chế bao cấp. Cho đến tháng 11/1995, theo quyết định của Bộ Lâm nghiệp, Đoàn 332 - Liên hiệp Kon Hà Nừng giải thể. 9 lâm trường được bàn giao lại cho tỉnh Gia Lai quản lý.
Đất nước càng tiến sâu vào công cuộc đổi mới, mô hình kinh tế “một thời vang bóng” càng lùi lại phía sau. Sự thật là đã có một quãng thời gian cái tên “Đoàn 332 – Liên hiệp Kon Hà Nừng” có vẻ bị lãng quên ngay trên chính miền đất mình đã sinh ra và cống hiến. Tuy nhiên lại chính nhờ sự đổi mới mà theo thời gian, những giá trị một thời được nhìn nhận lại… Ông Trương Văn Nhuần khẳng định: “Có mặt tại miền đất này trước khi huyện Kbang thành lập 9 năm, chính Đoàn 332 – Liên Hiệp Kon Hà Nừng chứ không ai khác đã khai mở những nền móng hạ tầng cơ sở ban đầu cho huyện – từ hệ thống giao thông, giáo dục đến y tế… Như thị trấn Ka Nak (sau này là thị trấn Kbang), ngay từ đầu đã được đơn vị quy hoạch để trở thành thị trấn lâm nghiệp. Bởi vậy khi chuyển trung tâm hành chính từ buôn Lới ra, kết cấu hạ tầng được Liên hiệp xây dựng đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho huyện không chỉ lúc đó mà cả sau này…”.
![]() |
Đền tưởng niệm các liệt sĩ, tử sĩ hy sinh tại Kan Nak. |
Nhưng điều có ý nghĩa hơn cả là hàng nghìn lao động có trình độ văn hóa, hàng trăm cán bộ khoa học kỹ thuật đã được đưa tới miền đất này. Có lẽ cả Tây Nguyên lúc ấy không đâu được đầu tư nguồn nhân lực quý giá như thế. Từ họ, nghề rừng được khai mở một cách bài bản, khoa học. Rừng được điều tra, quy hoạch tổng thể tài nguyên để tổ chức sản xuất, kinh doanh. Những nghề mới, những cây trồng mới được đưa tới đã góp phần nâng cao đời sống, dân trí cho đồng bào dân tộc địa phương. Cùng với đó, hàng trăm cán bộ năng lực tốt được điều chuyển cho bộ máy chính quyền từ cấp huyện đến cơ sở, bảo đảm cho Kbang một nền tảng an ninh chính trị vững chắc…
Rừng Kbang có một loại cây rất đặc trưng là thông nàng. Giữa sắc xanh đại ngàn, thông nàng như một sự điểm tô hữu ý: thân mọc thẳng, vút lên tưởng chấm trời xanh; suốt năm tháng cứ vi vu một khúc nhạc rừng man mác. Ai đã đặt tên cho loại cây rừng vô danh một cái tên gợi cảm thế? Chẳng ai biết! Song điều chắc chắn là loại cây này chỉ có tên khi Đoàn 332 đến mở rừng. Bao nhiêu người đã nằm lại đất này, bao nhiêu người đã gửi lại rừng một thời con gái, phải chăng họ đã hóa thân vào dáng thông nàng với thông điệp rằng họ đã sống một quãng đời như thế…
Ngọc Tấn
Ý kiến bạn đọc