Lây truyền HIV - viêm gan B từ mẹ sang con: Cần triển khai hiệu quả các biện pháp dự phòng
Lây truyền HIV và viêm gan B từ mẹ sang con không chỉ là một thách thức đối với ngành y tế mà còn là một vấn đề y tế công cộng cấp thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
HIV và viêm gan B là hai bệnh có thể lây truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ mang thai, khi sinh và cho con bú. Nếu không được can thiệp, tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con có thể lên tới 30 - 40%, trong khi viêm gan B có thể lên đến 90% nếu người mẹ có tải lượng virus cao. Điều đáng lo ngại là một khi trẻ bị nhiễm bệnh, hệ quả thường kéo dài suốt đời, ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần và chất lượng cuộc sống.
![]() |
Ảnh minh họa: Internet |
Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác phòng, chống lây truyền HIV và viêm gan B từ mẹ sang con tại các cơ sở y tế vẫn còn không ít khó khăn. Và một trong những giải pháp then chốt dự phòng lây truyền HIV, viêm gan B là cần tăng cường sàng lọc sớm và đầy đủ cho phụ nữ mang thai. Mọi phụ nữ mang thai nên được xét nghiệm HIV, viêm gan B (HbsAg- kháng nguyên bề mặt của virus viêm gan B) và giang mai ngay từ lần khám thai đầu tiên hoặc càng sớm càng tốt. Người mẹ nhiễm HIV cần được điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV) càng sớm càng tốt, nhằm giảm tải lượng virus và giảm thiểu nguy cơ lây truyền. Điều trị dự phòng ARV cho trẻ ngay sau khi sinh, đồng thời tiếp tục theo dõi, xét nghiệm DNA/PCR (kỹ thuật sinh học phân tử hiện đại dùng để phát hiện và phân tích vật liệu di truyền) để bảo đảm trẻ không nhiễm HIV. Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác truyền thông - giảm kỳ thị và hỗ trợ cộng đồng: Tăng cường các hoạt động truyền thông, giáo dục cộng đồng, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số nhằm nâng cao nhận thức và giảm kỳ thị, tạo điều kiện cho phụ nữ mang thai tiếp cận dịch vụ y tế.
Thời gian qua, ở địa bàn phía Tây Đắk Lắk, ngành y tế đã huy động mạng lưới tuyên truyền viên thôn buôn (gồm cán bộ hội phụ nữ, cộng tác viên y tế thôn, buôn) đến từng nhà để vận động phụ nữ mang thai đi khám và xét nghiệm. Đặc biệt, thực hiện mô hình “tư vấn tại nhà - theo dõi tại trạm y tế” để giúp bảo đảm phụ nữ mang thai nhiễm HIV được tiếp cận điều trị nhanh chóng hiệu quả; qua đó tại khu vực phía Tây của Đắk Lắk đã phát hiện và điều trị cho 16 phụ nữ mang thai nhiễm HIV, tất cả trẻ được sinh ra từ mẹ nhiễm HIV được làm xét nghiệm PCR, kết quả không có trẻ nào bị nhiễm. Bên cạnh đó, nhiều địa phương đã triển khai hiệu quả mô hình nhóm hỗ trợ cộng đồng, do những người nhiễm HIV khỏe mạnh làm nòng cốt, giúp phụ nữ mang thai tuân thủ điều trị và vượt qua rào cản tâm lý.
Để đạt mục tiêu quốc gia đến năm 2030 là sàng lọc trên 95% phụ nữ mang thai, điều trị trên 95% mẹ nhiễm HIV hoặc HBV và tiêm vaccine viêm gan B cho trẻ sơ sinh trong 24 giờ đạt trên 95%, Đắk Lắk còn rất nhiều việc cần triển khai. Theo đó, tỉnh cần mở rộng độ bao phủ xét nghiệm và điều trị tại tuyến xã; thiết lập phòng khám tích hợp xét nghiệm, điều trị, tư vấn và chăm sóc sau sinh (đặc biệt ở vùng sâu vùng xa) để tạo điểm dịch vụ toàn diện tại tuyến xã. Bên cạnh đó, cần đưa việc xét nghiệm HIV, HBV và giang mai vào gói dịch vụ bảo hiểm y tế cơ bản để giảm gánh nặng chi phí và tăng độ bao phủ, nhất là với phụ nữ dân tộc thiểu số và vùng khó khăn.
Nguyễn Công Thành
Ý kiến bạn đọc