Xứ Lạng ân tình
Tôi đã ngược xuôi nhiều lần ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc của Tổ quốc nhưng với Lạng Sơn thì đây là lần thứ hai. Khác với lần đầu cách đây đã 20 năm, giờ từ Hà Nội đi Lạng Sơn xe cứ vun vút trên đường cao tốc. Ngồi trên xe mà nghĩ đất nước thay đổi, phát triển là đây chứ đâu xa.
Câu ca “Ai lên xứ Lạng cùng anh” cứ ngân nga... Nhìn ra ngoài xe, phía bên tay trái con đường cao tốc đoạn gần đến trung tâm là những dãy núi đá vôi dằng dặc nối nhau. Ai đó thốt lên: “Ải Chi Lăng”. Đúng rồi, năm xưa ải Chi Lăng nằm sát đường, nay đường cao tốc mới nên nhìn thấy xa hơn. Cũng nhờ xa hơn mà rõ ra những chỏm núi một màu bạc phếch như màu tóc của những tráng sĩ bạch đầu mắt trừng, xốc gươm nhìn về phương Bắc. Rồi bỗng dưng đầu óc lại lan man với xứ sở này, nơi còn có ải Nam Quan di hận trong thơ của người xưa, có sông Kỳ Cùng chảy ngược với bao danh thắng: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/ Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh…
Chuyến đi này chúng tôi gọi là chuyến về nguồn. Cả miền đất bao la trập trùng ở vòng cung Đông Bắc này, nhiều nơi là địa đầu Tổ quốc nhưng có thể nói Lạng Sơn là nơi hứng chịu một cuộc chiến tranh tàn bạo và vô lý nhất, một cuộc chiến không ai ngờ tới. Từ bình địa đổ nát sau cuộc chiến, bây giờ trung tâm phố thị Lạng Sơn đã mọc ra những phố dài xanh mát, những cao ốc sừng sững, những ngôi chợ sầm uất và con sông Kỳ Cùng vẫn mềm xanh như dải lụa trong chiều biên tái.
![]() |
Cột mốc biên giới 1106 ở Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị. |
Nghe anh Nguyễn Đông Bắc, Tổng Biên tập Báo và Đài Phát thanh - Truyền hình Lạng Sơn kể, Đài Phát thanh - Truyền hình Lạng Sơn trước đây không giống như đài các tỉnh thành khác trong cả nước. Đầu những năm 1980, ở đây cũng có cuộc chiến âm thanh, hình ảnh tựa như cuộc chiến loa và cờ ở hai phía cầu Hiền Lương, sông Bến Hải năm xưa. Nghĩa là cả hai bên biên giới đều đua nhau nâng cấp chất lượng âm thanh, thay đổi tần số. Dĩ nhiên, anh chị em đồng nghiệp ở phía ta, nhất là anh em khối kỹ thuật đã xả thân trên đỉnh Mẫu Sơn băng giá vào mùa đông lạnh để chăm chút làn sóng đưa từng mẩu tin, từng phóng sự. Anh Đông Bắc bảo: “Giờ ổn rồi, thậm chí người dân bên kia biên giới đã bắt được sóng tốt, còn viết thư khen ngợi chất lượng chương trình của anh em chúng tôi”.
Hẳn nhiên, hòa bình là điều tất cả đều mong đợi. Chúng tôi đến Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị vào buổi trưa nắng ngào ngạt như mật ong rải thảm suốt đường đi. Cửa khẩu không lớn cũng không nhỏ. Phía bên ta xây dựng khang trang, có lối đi với mái che dành cho du khách, có trung tâm thương mại với cửa hàng miễn thuế, trạm biên phòng, hải quan… đầy đủ cả. Chúng tôi lần lượt chụp ảnh ở cửa khẩu, cột mốc biên giới. Đã nhiều lần đi các cửa khẩu và chụp ảnh với các cột mốc nhưng lần nào tôi cũng cảm giác rung động, thổn thức...
Đêm ở Lạng Sơn trời đầy sao. Theo yêu cầu, đồng nghiệp dẫn chúng tôi đến với cột mốc số 0. Nơi này là bối cảnh của tấm ảnh nổi tiếng, chụp một người lính đội mũ cối kê khẩu B41 ngay trên đầu cột mốc. Người lính đó không nói nhiều về mình nhưng hình ảnh của anh đã trở thành biểu tượng vệ quốc trong Chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979. Anh không nói về mình nhưng anh không vô danh. Gần hai thập niên sau, nhiều phóng viên của các tờ báo lớn đã viết về anh. Anh tên thật là Trần Duy Cung (còn có tên khác là Trần Huy Cung), quê ở Tiền Hải, Thái Bình. Là cựu binh tham gia chống Mỹ, anh Cung từng xông pha trận mạc ở chiến trường Quảng Trị giai đoạn ác liệt nhất. Năm 1967, anh Cung được xuất ngũ, trở về quê làm công nhân. Vậy nhưng, khi quân xâm lược tràn qua biên giới, anh lập tức tái ngũ và thuộc biên chế Trung đoàn 540, Sư đoàn Bộ binh 327, Quân đoàn 14. Sau này anh kể lại, những phát đạn B41 đầy sức mạnh căm hờn của anh đã góp phần cùng đồng đội giáng trả những đòn đích đáng tới đối phương với lời thề bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc tới giọt máu cuối cùng.
Xúc động, các thành viên trong đoàn đều muốn chụp một tấm ảnh kỷ niệm với cột mốc này. Khi thấy chúng tôi chọn thế ngồi, sửa góc máy, một người đàn ông trung niên bên kia đường chạy sang vui vẻ nói: “Các anh chụp ảnh, cần gì em cung cấp cho, không phải phí phiếc gì cả. Em có đủ, từ quân phục, mũ cối đến cả khẩu B41 làm bằng nhựa y như thật…”. Chúng tôi không biết nói gì, lòng chỉ thầm cảm ơn một người dân Lạng Sơn, bằng hành động của mình, đã nhân rộng thêm nhiều lần biểu tượng của lòng yêu nước.
Nhưng Lạng Sơn không chỉ là linh địa đi qua chiến tranh, không chỉ là miền biên viễn với trập trùng núi đá vôi và những vườn cây thơm hương hồi, quế. Lạng Sơn còn níu giữ chúng tôi bằng những ân tình qua ẩm thực của miền cao Đông Bắc. Những bữa ăn với đồng nghiệp đã cho chúng tôi vị rau bò khai ngọt giòn mê mẩn, những mẹt lợn bản bốc khói dồi, lòng, những dĩa xôi nếp nương ngào ngạt… Tất cả hòa cùng tạo nên bức tranh đa sắc, cũng là ăn uống thôi nhưng đã nâng lên tầm văn hóa. Nhấp một chén rượu men lá nồng nàn vị cây cỏ mà lòng hết ngờ vực những câu ca: “Ai lên xứ Lạng cùng anh. Bỏ công thầy, mẹ sinh thành ra em. Tay cầm bầu rượu nắm nem. Mảng vui quên hết lời em dặn dò”.
Nhân vật trong câu ca dao có quên lời em dặn hay không? Còn tôi thì tôi nhớ mãi một lần đi, một lần quay trở lại với xứ Lạng ân tình, nơi miền Đông Bắc của Tổ quốc ngập tràn thương mến.
Phạm Xuân Hùng
Ý kiến bạn đọc