Multimedia Đọc Báo in

Người giúp nhà thơ Tố Hữu vượt ngục Đăk Glei

08:27, 06/12/2025

“Núi hỡi từ đây băng xuống đó/ Chừng bao nhiêu dặm mấy đêm trường…”.

(Tố Hữu - Tiếng hát đi đày)

Có thể nói khắp Tây Nguyên không đâu có cái thế hiểm hóc như vùng đất Đăk Glei (Kon Tum cũ, nay là Quảng Ngãi). Dễ có cảm giác núi non không mọc từ đất lên mà buông xuống từ biển mây quanh năm sũng nước. Dựa cái thế núi non hiểm trở “ma thiêng nước độc” ấy, năm 1932 thực dân Pháp đã dựng lên một địa ngục khét tiếng - ngục Đăk Glei.

Đầu lối rẽ vào ngục Đăk Glei phải qua một con dốc dài ngoắt ngoéo có tên là “Dốc Tố Hữu”. Không biết ai đặt và tên ấy có tự bao giờ, chỉ biết sau giải phóng đã nghe bà con quen gọi...

Từ năm 1984, tôi đã được nghe kể về chuyện nhà thơ Tố Hữu từng bị giam cầm ở nhà ngục này rồi thoát ngục nhờ một người bạn tù tên là A Nhic ở làng Lua, xã Đăk Choong giúp đỡ. Háo hức những muốn đi tìm nhưng ngặt nỗi hồi đó đường sá từ Pleiku đến làng Lua quả là một nỗi hãi hùng… Bây giờ thì ông A Nhic đã mất. Thật may, trong câu chuyện tình cờ, tôi được biết A Nhíc có con trai là A Thanh Sắc từng là Trưởng Phòng Dân tộc - Tôn giáo, hiện đang sống ở xã Đăk Pék (tỉnh Quảng Ngãi)…

*

“Hồi còn sống, cụ tôi hay kể chuyện hoạt động cách mạng cho con cháu nghe, trong đó có đoạn ông cứu nhà thơ Tố Hữu. Cụ kể nhiều lần nên tôi nhớ rất rõ chi tiết” - A Thanh Sắc từ tốn kể - “Cha tôi từ năm lên 10 tuổi đã tham gia hoạt động cách mạng bằng việc liên lạc, đưa thư cho các chú. Ông biết Tố Hữu khi ông về hoạt động ở vùng Phước Sơn - Quảng Nam. Theo sự mô tả của cha tôi thì nhà thơ Tố Hữu ăn mặc như người Jẻ Triêng, giả làm người đi buôn để che mắt địch. Năm 1942, ông bị giặc Pháp đưa lên giam ở ngục Đăk Glei thì cha tôi cũng bị bắt giam ở đó. Gặp, hai người nhận ra nhau ngay… Ở trong tù, anh em đặt cho Tố Hữu biệt danh là A Nhoong. “A Nhoong” tiếng Xê Đăng có nghĩa là “em”. Biệt danh ấy có lẽ do vóc dáng nhỏ nhắn, trắng trẻo thư sinh của ông”…

Ông A Nhic bị nhốt ở ngục Đăk Glei 3 tháng. Giặc Pháp tra tấn rất dã man nhưng ông vẫn một mực không khai. Đoán chắc không tìm được chứng cứ gì, sớm muộn chúng cũng phải thả nên ông vạch kế hoạch vượt ngục cho nhà thơ Tố Hữu. Ngục Đăk Glei vốn lọt thỏm giữa những rặng núi cao vây bủa, người vượt ngục nếu không biết hướng đi sẽ luẩn quẩn mãi giữa rừng, không chết đói chết rét thì cũng bị thú dữ ăn thịt.

Ngục Đăk Glei - nơi giam cầm nhà thơ Tố Hữu.

Có lẽ vì điều này nên bọn lính ngục hơi chủ quan. Thời gian từ 2 - 4 giờ sáng không chịu nổi khí lạnh rừng già buốt như cắt thịt, chúng thường đi đốt lửa sưởi, đôi khi ngủ vùi quên cả gác… A Nhic và Tố Hữu thống nhất: Cứ đến khoảng thời gian đó Tố Hữu phải thức chờ sẵn bên trong, còn A Nhic sẽ theo dõi bên ngoài. Nếu thấy cơ hội ông sẽ giả tiếng mang kêu cho Tố Hữu biết…

Mọi việc quả nhiên đúng như trù liệu. Một đêm, tên lính gác ngủ say quên khóa cửa, Tố Hữu đã theo ám hiệu thoát được ra. Nhưng những ngày tháng giam cầm đã khiến ông kiệt sức không đi nổi. A Nhic xốc ông lên vai cõng chạy vào rừng… Ba tháng trong ngục, sức đã đuối mà A Nhic cũng cõng được Tố Hữu lội một mạch dọc suối Đăk Choong rồi nhằm hướng làng Bê Rê trèo lên. Đến lưng chừng dốc thì trời hửng sáng phải dừng lại. A Nhic giở cơm lam, cá nướng mang theo cho Tố Hữu ăn. Hai người tiếp tục bàn bạc. Giờ này bọn cai ngục chắc đang xua lính đi lùng sục, phải chờ vài ngày cho tình hình tạm yên và cũng để Tố Hữu lại sức… Mấy ngày sau đó họ nhận được tin: Bọn chúa ngục không tìm thấy tăm tích Tố Hữu đã bắn chết tên lính gác. Như vậy là đã có thể đi được. A Nhic chuẩn bị cho Tố Hữu một gói xôi, hai ống cá nướng, cơm lam để ăn đường và một con dao để đề phòng thú dữ. A Nhic lấy lá chuối khô dùng than vẽ đường đi, dặn dò thật cẩn thận rồi tiễn Tố Hữu xuống tận sông Đăk My mới quay về…

*

A Thanh Sắc kể tiếp: “Tố Hữu đi rồi, cha tôi lòng đầy thấp thỏm. Ông kể rằng lúc nào cũng lẩm nhẩm khấn Yang phù hộ cho nhà thơ “thấy Tây thì Tây tránh; thấy thú dữ thì thú dữ lánh xa”… Ông không hay rằng Tố Hữu đã may mắn thoát về làng Rô yên lành… Mãi đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công, biết được tin Tố Hữu thay mặt Chính phủ Việt Minh vào Huế tước ấn kiếm của Bảo Đại thì cha tôi nhảy lên reo mừng. Không giấu được niềm tự hào là đã cứu thoát được một cán bộ quan trọng cho cách mạng, ông mang chuyện đi kể khắp làng… Đang mong có ngày được đi Hà Nội gặp Bác Hồ, thăm nhà thơ Tố Hữu thì chiến tranh lại tiếp tục nổ ra. Tuổi tác ngày càng già, cha tôi nghĩ có lẽ mình chẳng bao giờ gặp lại người xưa - tuy trong thâm tâm ông tin chắc không bao giờ Tố Hữu quên ông. Linh tính của người già quả đúng. Năm 1978, nhà thơ Tố Hữu lúc bấy giờ là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vào thăm Gia Lai - Kon Tum. Đăk Choong hồi đó đâu đã có đường ô tô và Tố Hữu cũng không chắc A Nhic còn sống nên chỉ gửi lời hỏi thăm. Đến năm 1988, tôi nhớ có một cán bộ tên là Kiên vào làng tìm cha tôi nhưng không gặp. Năm 1990 biết chắc cha tôi còn sống, trong một chuyến công tác vào Tây Nguyên, Tố Hữu gửi lời thăm. Tháng 3/1993, cha tôi qua đời…

Tin cha tôi mất từ ngôi làng xa tít giữa đại ngàn chẳng hiểu sao cũng đến được Tố Hữu. Nhưng lúc này nhà thơ cũng đã hơn 70 tuổi rồi, dẫu muốn ông cũng chẳng thể đến làng viếng cha tôi được. Qua ông Sô Lây Tăng - lúc bấy giờ là Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, Tố Hữu gửi tặng gia đình tôi 2 m vải đựng trong một chiếc túi xách bằng da cùng một bức thư… Tất cả bây giờ tôi vẫn giữ nguyên vẹn, xem đó là một kỷ vật thiêng liêng của hai ông…”.

Ngọc Tấn


Ý kiến bạn đọc