Multimedia Đọc Báo in

Đọc nhật ký của một nhà văn anh hùng

07:20, 27/07/2025

Năm 2000, cuốn nhật ký của nhà văn, liệt sĩ Chu Cẩm Phong được Nhà xuất bản Văn học phát hành với tên gọi “Nhật ký chiến tranh”, đến năm 2007 tác phẩm này được trao tặng Giải thưởng Nhà nước.

Tháng 4/2010, nhà văn Chu Cẩm Phong đã đi vào lịch sử của Hội Nhà văn Việt Nam bởi anh là người đầu tiên của Hội được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ tranh nhân dân.

Nhà văn Chu Cẩm Phong tên thật là Trần Tiến, sinh năm 1941, ở làng Minh Hương, Hội An, tỉnh Quảng Đà, nay là phường Hội An, TP. Đà Nẵng. Năm 1954, anh theo cha tập kết ra Bắc, học tập tại Trường học sinh miền Nam; năm 1964 anh tốt nghiệp xuất sắc Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, được cử đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài nhưng anh từ chối, tha thiết được về quê hương, lấy ngòi bút làm vũ khí chiến đấu.

Những ngày đầu vào chiến trường, Chu Cẩm Phong làm phóng viên Thông tấn xã Giải phóng khu 5 rồi chuyển sang làm Tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ, với vai trò Bí thư Chi bộ Tiểu ban Văn nghệ. Chu Cẩm Phong không chỉ là người cầm bút ở chiến trường mà còn là một chiến sĩ xung trận đầy khí phách, coi cái chết nhẹ nhàng khi được hiến dâng cho Tổ quốc. Chính vì vậy mà những tác phẩm văn chương của anh đầy ắp sự chân thật và cũng như ý chí, kiên trung của bao con người xả thân để vệ quốc. Từ truyện ký đầu tay “Chuyện làng Trụi” đến “Rét tháng Giêng”, “Gió lộng từ Cửa Đại”, “Mặt biển, mặt trận”,  “Lá đơn tình nguyện”, “Người giữ ruộng trên núi Kông Dinh” đến “Làng Tà Riềng”, “Con chị Hiền” và “Nhật ký chiến tranh” đều tươi rói màu thời gian và giàu tính chân thực.

Sáng 1/5/1971, chiếc máy bay trinh sát quần thảo, sau đó 6 chiếc trực thăng bất ngờ đổ bộ đội quân hỗn hợp Mỹ - ngụy xuống cánh đồng của làng Vinh Cường, xã Xuyên Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Đà (nay là xã Thu Bồn, TP. Đà Nẵng) càn quét. Lúc này, 8 cán bộ, chiến sĩ gồm: Chu Cẩm Phong, Nguyễn Tiềm, Nguyễn Thị Xuân Ca, Nguyễn Thị Ta, Trần Ngọc, Mai Văn Mai, Lê Yến và Nguyễn Đình Nguyên phải xuống căn hầm bí mật sát bên bờ suối. Địch phát hiện được căn hầm, chúng dùng loa kêu gọi ra đầu hàng, sau đó ném tới tấp lựu đạn xuống hầm, song do căn hầm được làm hai ngăn tách biệt để chống lũ lụt nên chưa gây thương vong. Biết khó thoát kẻ thù, Chu Cẩm Phong bàn với mọi người tiêu hủy hết tài liệu mật rồi vùng lên nổ súng chiến đấu để mở đường. Sau đó, Chu Cẩm Phong và các anh/chị Tiềm, Ca, Ta hy sinh ngay tại miệng hầm, một số người khác bị bắt giải về quận lỵ Đức Dục. Một người lính Sư đoàn 3, quân đội Sài Gòn tới khám thi thể đầy máu của Chu Cẩm Phong, thu giữ được cuốn nhật ký của anh, giở đọc vài dòng rồi giao cho một người lính khác. Những dòng chữ trong cuốn nhật ký đã làm mềm lòng, chạm đến cảm xúc của người lính quân đội Việt Nam Cộng hòa và anh ta đã âm thầm gìn giữ cuốn nhật ký cho đến sau ngày đất nước thống nhất mới tìm gặp nhà thơ Bùi Minh Quốc để trao tặng.  

Đọc nhật ký của Chu Cẩm Phong, tuy anh không nói rõ con chữ đầu tiên trong cuốn sổ được viết ở đâu nhưng ta có thể suy đoán từ những dòng chữ ấy: “Ở đây đã gần đồng bằng, nói đúng ra là gần Trung Châu, tiếng đại bác dưới Tư Nghĩa, Sơn Tịnh vọng lên ầm ầm”. (nhật ký ngày 11.7.1967). Rõ ràng đây là địa danh hai huyện thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Rồi đoạn cuối cùng trong cuốn sổ khó đoán hơn: “10 giờ, 2 chiếc phản lực đến thả bom và bắn đạn 20 ly, sau đó quân bộ kéo sang” (nhật ký ngày 27.4.1971). Qua lời kể của ông Lê Yến, một trong số cán bộ bị bắt hôm ấy đã trốn thoát thì Chu Cẩm Phong đã về làng Vinh Cường trước đó mấy ngày, không đi đâu cho đến ngày 1/5/1971 địch phát hiện hầm. Vì nơi Chu Cẩm Phong hy sinh là làng quê rơm rạ của tôi nên cụm từ anh viết “sau đó quân bộ kéo sang” là ý anh nói quân địch ở bên huyện Đại Lộc vượt sông Thu Bồn để qua phía bờ Nam, làng Vinh Cường. Qua nhật ký của Chu Cẩm Phong, ta thấy rất rõ dù ở trong bất cứ hoàn cảnh gian nguy, khốc liệt đến mấy, ngòi bút của anh vẫn sáng rực những dòng chữ nóng hổi về hơi thở của thời cuộc: “Mình lấy cửa hầm làm phòng viết, bàn là một tấm ván, một đầu kê vào bậc lên xuống cửa hầm” (nhật ký ngày 11.5.1968); “Viết cái ký chưa được, buổi sáng mình chuyển sang viết một bài báo gởi về Báo Cờ Giải Phóng miền và tờ Giải Phóng của tỉnh, buổi chiều đang ngồi làm việc thì bị oanh tạc” (nhật ký ngày 21.5.1968); “Về đến hầm 2 giờ 30 sáng. 4 giờ tiếp tục chống càn, ngày hôm sau có một lúc căng, địch sang Phú Thọ đốt phá, khói mù mịt cả bầu trời, mình ra công sự nhưng vẫn ngồi trên nóc viết” (nhật ký ngày 27.4.1971)

Được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ tranh nhân dân là sự vinh danh hoàn toàn xứng đáng đối với một nhà văn đã dành trọn ý chí và cống hiến trọn tuổi xuân cao đẹp cho đất nước như anh đã viết trong nhật ký: “Dù thế nào mình cũng không xê dịch cái phương châm sống của mình. Dũng cảm, say sưa, quên mình như những chiến sĩ cộng sản chân chính đi trước. Dẫu ngã xuống một giờ, nửa giờ trước khi ta giành thắng lợi hoàn toàn cũng hạnh phúc lắm thay” (nhật ký ngày 8.1.1970).

Thái Mỹ


Ý kiến bạn đọc


Xem thêm

Cỏ thơm
07:20, 27/07/2025
Thương nhớ cầu tre
06:51, 26/07/2025
Tổ quốc tôi
06:52, 26/07/2025
Tháng Bảy
07:08, 20/07/2025
Kỳ 2: Thắp lửa tri ân
Những nỗ lực trong hành trình "tri ân xoa dịu nỗi đau", không chỉ bằng chính sách “Đền ơn đáp nghĩa” của Đảng, Nhà nước, mà còn qua muôn vàn nghĩa cử cao đẹp của cộng đồng.